Nhiều lãnh đạo thường sa vào vũng lầy trong việc có cái nhìn phiến diện
về khả năng của mình và họ luôn phải đối diện với nguy hiểm lớn khi coi
thường những nguy cơ rõ ràng trong các tình huống đó.
Theo sử thi Iliad thì
Ajax the Lesser là một chiến binh có vóc người nhỏ con, nhanh nhẹn và
sử dụng giáo rất giỏi. Anh đã tham gia trận chiến nổi tiếng ở thành
Troy (trận Trojan War) và lập nhiều chiến công. Khi cuộc chiến kết
thúc, Ajax đã tới đền thờ nữ thần Athena và cưỡng đoạt công chúa
Cassandra, con gái của quốc vương Priam.
Hành động này đã làm nữ
thần Athena phẫn nộ và bà đã đặt lời nguyền cho hải quân của Ajax bị
đắm thuyền trên biển khi trở về nhà. Ajax may mắn được thần biển
Poseidon cứu sống nhưng thay vì cám ơn Poseidon thì anh lại bộc lộ bản
chất kiêu ngạo và xấc xược. Chính sự kiêu căng ngạo mạn này đã khiến
Poseidon tức giận và dìm chết Ajax dưới đáy biển sau đó.
Đối với
người Hy Lạp cổ đại, sự ngạo mạn, xấc xược là không thể tha thứ được.
Bởi nếu không kiềm chế những tính xấu này thì lâu dần nó sẽ dẫn đến
những hành động tội lỗi, cuồng loạn và gây nguy hiểm cho nhiều người
khác, thậm chí là cả một xã hôi.
Herbert London, một nhà hoạt
động chính trị của Đảng bảo thủ Anh đã quan sát kĩ lưỡng những bài học
thất bại từ thói ngạo mạn và nhận ra nó là mối hiểm họa thực sự đối với
nền kinh tế hiện đại. Có lần ông đã gửi một e-mail với nội dung nhắc
nhở sự nguy hiểm của thói xấu này tới Kenneth Lay, CEO tập đoàn Enron,
lừng lẫy một thời ở Mỹ. Trong một buổi họp trước toàn thể nhân viên của
mình năm 2001, Kenneth Lay đã tuyên bố: "Chúng ta có một tổ chức hùng
mạnh nhất trong giới doanh nghiệp Mỹ ngày nay". Và kết cục là Enron đã
phá sản ngay trong năm này còn chính Kenneth Lay phải chịu án tù 45 năm.
Câu
chuyện về Công ty Enron của Mỹ là câu chuyện thời sự nóng nhất trên thị
trường tài chính thế giới vào giai đoạn cuối năm 2001 và đầu năm 2002.
Câu chuyện nóng lên trở lại từ tháng 7/2004, khi Tổng giám đốc kiêm chủ
tịch của công ty bắt đầu bị khởi tố.
Được thành lập từ năm
1985 trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và Internorth
of Omaha, Enron nhanh chóng trở thành một công ty đa quốc gia hùng mạnh
trong lĩnh vực năng lượng. Enron đã trở thành công ty lớn thứ bảy của
Hoa kỳ và có lúc là công ty năng lượng hàng đầu thế giới. Công ty có
hoạt động ở hơn 30 quốc gia trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam.Lĩnh vực
hoạt động chính của công ty đã mở rộng dần từ vận chuyển và phân phối
khí đốt sang buôn bán xăng dầu và khí đốt, xây dựng các nhà máy điện và
cung cấp điện.Trên con đường phát triển và mở rộng lĩnh vực hoạt động,
việc kinh doanh của Enron ngày càng mang thêm nhiều rủi ro.
Giới
chuyên gia cho rằng, sai lầm của công ty này chính là phụ thuộc quá
nhiều vào các giao dịch tài chính. Vào tháng 8/2001, Giám đốc Điều hành
Jeffrey Skilling từ chức vì lý do cá nhân. Enron công bố lỗ 618 triệu
USD trong quý III nhưng thực tế lên tới 1,2 tỷ USD. Khi công ty khó
khăn, họ thuyết phục nhân công nhận lương và thưởng bằng cổ phiếu. Làm
cách đó, giá trị của Enron đã bị giảm sút nghiêm trọng. Khi Ủy ban
Chứng khoán Mỹ điều tra, Giám đốc tài chính Fastow phải ra đi, cổ phiếu
của Enron tụt giá thảm hại, lòng tin của khách hàng đã mất khiến họ
không đầu tư nữa và công ty khánh kiệt.

Kenneth Lay bị kết án 45 năm tù
Ngoài
những lời tự đánh bóng về khả năng quản lý, Enron được quảng cáo rất
hiệu quả qua công ty kiểm toán Arthur Andersen và các nhà phân tích phố
Wall, nhờ vậy số người mua cổ phiếu của công ty cao kỷ lục. Đến khi
công ty tuyên bố phá sản với số nợ 31,2 tỷ USD, nhiều nhà đầu tư mới ôm
mặt than khổ.
Một ví dụ khác là:
Long-Term
Capital Management (LTCM) là một quỹ chống rủi ro lớn của Mỹ, được
thành lập năm 1994. Quỹ này là một quỹ tự bảo hiểm đi tiên phong về sử
dụng kĩ thuật quản lý rủi ro dựa trên cơ sở lý thuyết thị trường hiệu
quả. Người sáng lập và điều hành Quỹ này là John Meriwether, chuyên gia
đầu tư về trái phiếu nổi tiếng. Trong đội ngũ thành viên chủ chốt của
LTCM còn có nhiều nhà kinh tế học từng đoạt giải Nobel. Thành công đến
với LTCM thời gian đầu là điều không có gì ngạc nhiên, nhưng cuối cùng
vì quá tự phụ với tài năng của mình mà những nhà lãnh đạo của LTCM đã
'góp công' đưa Quỹ này đến với vực sâu phá sản năm 2000.
John
Meriwether nghĩ rằng phương pháp siêu việt để kinh doanh chứng khoán là
phương pháp toán học. Vì thế, ông tuyển vào LTCM nhiều chuyên gia nổi
tiếng đã thành công về toán tài chính. Trong số những chuyên gia đó có
những đồng nghiệp cũ khi ông còn làm thuê cho ngân hàng Salomon
Brothers, David Mullins, cựu phó chủ tịch cục dự trữ liên bang Mỹ
(FED), Robert Merton, giáo sư đại học Harvard, Myron Scholes, giáo sư
Đại học Standford,… Năm 1997 hai vị giáo sư Merton và Sholes được giải
Nobel Kinh tế.
LTCM khởi đầu với vốn 1,25 tỷ USD, trở thành
quỹ phòng vệ lớn nhất và linh động nhất thế giới vào thời đó. Sau khi
trừ tiền hoa hồng, tỉ suất lợi nhuận của cổ đông là 42,8% năm 1995,
40,8% năm 1996 và 17,4% năm 1997. Đầu năm 1998, vốn của LTCM là 4,8 tỷ
USD với khả năng vay 200 tỷ và tình hình tài khoản những sản phẩm thứ
cấp hơn 1.200 tỷ USD. Với những thành tích như vậy, lãnh đạo LTCM mỗi
ngày mỗi phiêu lưu hơn. Họ kiêu căng đến nỗi đề nghị trả lại tiền vốn
những ai muốn hỏi chi tiết về chính sách đầu tư của họ.
Sau
khủng hoảng tài chính ở châu Á năm 1997, tỉ lệ chiết khấu các trái
phiếu tăng làm cho lãi của LTCM giảm. Nhưng lãnh đạo LTCM vẫn dự đoán
tình hình sẽ mau chóng trở lại như xưa. Họ bán trái phiếu với vị thế mở
(open position), bỏ qua việc mua hợp đồng ngoại tệ kỳ hạn để bảo hiểm
rủi ro khi tỉ giá thay đổi trên thị trường Mỹ để mua ở thị trường Nga.
Ngày 17.8.1998, thủ tướng Nga Sergueï Kirienko tuyên bố gia hạn nợ của
Liên bang Nga và phá giá đồng rúp. Ngay lập tức các nhà đầu tư quốc tế
rút tiền từ Nga để đầu tư vào Mỹ. LTCM phải bán tháo trái phiếu Nga để
thanh toán những hợp đồng trên thị trường Mỹ. Do không có biện pháp
chống rủi ro tỉ giá, trong tháng tám họ lỗ 1,7 tỷ USD rồi lỗ thêm một
tỷ nữa trong ba tuần đầu tháng 9.1998.
Ngày 18.9.1998, khi tin
đồn khả năng phá sản bắt đầu lan tràn, vốn của LTCM tụt từ 4,8 tỷ USD
xuống còn 1,5 tỉ USD và chính thức phá sản năm 2000.
Herbert
London nhìn nhận thấy nhiều lãnh đạo có thể thường sa vào vũng lầy của
việc có cái nhìn phiến diện về khả năng của họ. Họ luôn phải đối diện
với hiểm nguy lớn lao khi coi thường những nguy cơ rõ ràng trong các
tình huống đó. Mark Button đến từ đại học Utah cũng thấy rằng nhiều nhà
lãnh đạo bỏ ngoài tai những lời khuyên chân thành về sự tự phụ tài cao
của họ. Việc né tránh những buổi thảo luận và lắng nghe một cách tích
cực đã dẫn dắt họ đi tới thất bại nhanh hơn bao giờ hết.
Hơn
nữa, cũng cần nhận ra sự khác biệt giữa một con bạc và một chủ doanh
nghiệp. Khi con bạc vỡ nợ, chỉ mình anh ta bị tổn thất. Còn với chúng
ta, những nhà lãnh đạo, thói kiêu căng, ngạo mạn của chúng ta có thể
đẩy nhiều người khác vào cảnh bĩ cực giống như những ví dụ về Kenneth
Lay ở Enron hay John Meriwether với Long-Term Capital Management. Chúng
ta cần xem xét lại bản thân thường xuyên, giống như những người Hy Lạp
cổ đại, đừng để thói kiêu căng tự phụ trở thành một tai họa làm hại
chính chúng ta và vô khối người khác có liên quan.